Thứ Ba, 11 tháng 12, 2018

Bánh lá mơ - Món quà vặt giản dị của miền Tây

Cách làm đã đặc biệt, nguyên liệu cũng đặc biệt không kém nên bánh sau khi hoàn thành có mùi thơm vô cùng đặc trưng và hấp dẫn.

Miền Tây từ xưa đến nay vốn rất nổi tiếng về các loại bánh ăn chơi, bánh quà vặt cho trẻ nhỏ. Đặc biệt, nếu bạn là con người sinh ra và lớn lên ở vùng đất này thì có lẽ đều không thể không biết đến món bánh lá được xem là một trong những đặc sản nơi đây. Bánh lá rau mơ hay còn gọi là bánh lá mít, bánh nắn lá, bánh lá... là món bánh ăn vặt mà hầu như đều ghi dấu trong ký ức mỗi người, thậm chí nhiều năm về sau khi đã trưởng thành thì du khách tour du lịch miền Tây 4 ngày vẫn còn thích nhâm nhi món bánh này không chỉ để thỏa cơn thèm mà như để ôn lại chút kỷ niệm ngày xưa.


Gọi là bánh lá rau mơ vì loại bánh này có sử dụng nguyên liệu là lá rau mơ. Tuy nhiên, ở miền Tây có đến 2 loại lá rau mơ. Loại thứ nhất là lá rau mơ rừng có thân lá thuôn dài, mỏng, màu xanh nhạt. Loại thứ hai là lá mơ lông, loại này có nhiều ở miền Bắc, thân lá tròn, dày, một mặt lá màu xanh, mặt sau màu tim tím, trên thân lá có đầy lông tơ.

Và để làm bánh lá rau mơ thì người miền Tây sử dụng loại lá rau mơ rừng là phổ biến. Tuy nhiên, thời gian gần đây, do lá rau mơ rừng ngày càng ít đi nên đôi khi người ta cũng dùng lá rau mơ lông làm bánh. Và hai loại lá này tuy khác nhau về hình dáng bên ngoài nhưng có mùi hương tương tự nhau nên bánh làm ra cũng không khác nhau mấy.

Bánh lá rau mơ làm không khó. Nguyên liệu chính làm bánh là lá rau mơ, bột gạo, nước cốt dừa. Lá rau mơ hái về thì rửa sạch rồi cắt nhỏ xay nhuyễn lấy nước. Sau đó cho nước lá rau mơ, một ít nước cốt dừa, đường, muối và bột gạo để tạo ra hỗn hợp bột sền sệt. Còn nếu muốn bánh ngon hơn nữa thì người ta tự xay gạo chứ không dùng loại bột gạo bán sẵn ngoài tiệm. Gạo ngâm nhiều giờ liền cho mềm rồi cho vào cối xay chung với lá rau mơ đã cắt nhuyễn cũng cho ra hỗn hợp bột tương tự.

Bánh lá rau mơ không chỉ sử dụng lá làm nguyên liệu mà còn sử dụng lá làm khuôn bánh. Loại lá được sử dụng phổ biến nhất chính là lá dừa nước. Bởi lý do đơn giản là vì dừa nước là loại cây rất dễ tìm hơn miền Tây, thân lá cứng dày có thể tái sử dụng nhiều lần. Và ngoài lá dừa nước thì đôi khi người dân còn dùng lá mít, lá chuối để làm khuôn bánh. Do đó, có nơi gọi là bánh lá rau mơ nhưng có nơi gọi là bánh lá mít.


Tùy vào loại lá dùng làm khuôn bánh mà cách quấy bột, cho bánh lên khuôn cũng khác nhau một chút. Lá dừa nước do có độ cứng, có lòng lá sâu nên phần bột sẽ loãng hơn và dùng vá múc bột đổ lên mặt lá là được. Còn đối với lá mít hay lá chuối do có thân lá mỏng, bằng phẳng nên bột cần đặc hơn và dùng tay trực tiếp nắn bột lên bánh. Tuy nhiên, nếu muốn bánh có độ dày dặn, người làm bánh có thời gian tỉ mỉ thì nắn bánh lên lá dừa nước vẫn được. Đó là lý do vì sao có nơi gọi đây lá món bánh nắn lá là vì vậy.

Nếu dùng lá mít hoặc lá chuối làm khuôn thì sau khi nắn bột lên lá, người ta sẽ cuốn lá lại theo cuộn tròn trước khi cho vào nồi hấp chín. Còn đối với lá dừa nước thì cứ để nguyên lá thế xếp chồng chéo lên nhau rồi cho vào nồi là được. Đó là lý do vì sao lá dừa nước thông dụng hơn khi dùng làm khuôn bánh lá rau mơ, vừa không mất thời gian nắn bánh, không cần cuộn lá lại và sau khi bánh chín thì việc gỡ bánh ra khỏi lá cũng nhanh hơn.

Do bánh lá rau mơ rất mỏng nên việc hấp bánh cực nhanh chín. Khoảng 5 phút là đã có thể cho ra lò một mẻ bánh chín thơm nồng. Điểm đặc biệt của loại bánh này là khi ở dạng bột thì bánh có màu xanh của lá mơ nhưng sau khi hấp chín thì bánh đổi màu xanh đen sậm. Thứ 2, do lấy lá làm khuôn nên bánh làm ra cũng có hình dạng của lá với đầy đủ gân lá in hằn lên. Và tất nhiên, tùy bạn lấy lá nào làm khuôn thì bánh sẽ có hình dạng của loại lá đó.


Ngoài ra, do được làm từ lá rau mơ nên bánh chắc chắn có mùi thơm rất đặc trưng. Có thể nói hương vị của bánh có khả năng gây nghiện cho du khách tour du lịch miền Tây 4 ngày 3 đêm rất cao. Bởi chỉ cần thưởng thức qua là thấy lạ miệng và bị cuốn hút ngay. Và chắc chắn rằng, mùi thơm đặc trưng của bánh lá rau mơ rất khó tìm được ở các loại bánh khác.

Bánh lá rau mơ này nếu ăn không thì rất nhạt và không đúng kiểu. Bánh phải được ăn với nước cốt dừa thắng sền sệt, thêm chút muối, chút đường, đậu phộng giã nhỏ hoặc mè rang và hành lá cắt nhỏ là đúng bài nhất. Bánh vừa mới ra lò còn nóng hổi thơm lừng chấm với nước cốt dừa beo béo đưa lên miệng ăn là bảo đảm nghiện ngay.

Từ ngày xa xưa, bánh lá rau mơ được xem là món quà vặt rất được ưa thích của trẻ nhỏ. Ngày nay, món bánh này vẫn được nhiều người lớn yêu thích không chỉ vì độ ngon hấp dẫn mà còn vì món bánh này như một vật trung gian đưa kỷ niệm tuổi thơ ùa về. Ngày nay, nếu có dịp đến miền Tây thì việc thưởng thức món bánh này không hề khó vì hầu như món bánh lá rau mơ vẫn còn được "hâm mộ" ở mọi nơi. Từ các chợ lớn ở từng vùng hay các chợ nhỏ thôn quê thì vẫn không khó để tìm mua món bánh này. Nếu chưa từng được thưởng thức qua thì khi có dịp đến thăm miền Tây, bạn nhớ đừng bỏ qua món bánh lá rau mơ đặc biệt này nhé!

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2018

Vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời của chùa Tam Thanh

Được mệnh danh là “ Đệ nhất bát cảnh xứ Lạng” . Chùa Tam Thanh Lạng Sơn từ lâu là một địa chỉ du lịch tâm linh ấn tượng bởi vẻ đẹp tự nhiên, hoang sơ như chống bồng lai, một không gian tuyệt vời giữa thiên tạo và ước vọng của con người.

Chùa bên trong hang động

Chùa Tam Thanh tọa lạc bên trong núi đá, còn gọi là động Tam Thanh thuộc thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Theo sử liệu, chùa được xây dựng từ thời nhà Lê. Ngày nay nhiều dấu ấn lịch sử được thể hiện một cách khá rõ nét trên nhiều di tích của chùa.


Tên gọi Tam Thanh chỉ quần thể gồm ba hang động Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh. Chùa Tam Thanh được xây dựng trong động Tam Thanh nên chùa được lấy tên theo động.

Trên nền trời mây phủ quanh năm, giữa trùng điệp núi non hiểm trở. Sự hùng vĩ của đất trời biên cương càng làm cho chốn tâm linh trở nên huyền ảo, diệu kỳ và nhuốm màu sắc tâm linh.

Động Tam Thanh nằm tựa mình vào dãy núi có hình đàn voi nằm phục trên thảm cỏ xanh. Cửa động hướng về phía Đông, được những hàng cây cổ thụ bao phủ, che chắn như một án bình phong trấn giữ trước cửa thiền.

Bước chân vào động vãng cảnh chùa. Đầu tiên, bạn phải bước qua 30 bậc đá được người xưa đục sâu vào sường núi làm lối đi. Cứ mỗi bước chân đi lên, cảnh sắc xung quanh cũng dần thay đổi. Những hàng cây ven đường như muốn tỏa lại, chen chắn ngày càng dày thêm. Vách đá hai bên đường dựng đứng, cheo leo như thách thức.

Vào cửa động, đi qua cổng Tam quan các bạn sẽ thấy một không gian tâm linh, huyền bí đến ảo diệu. Từng gian thờ Phật được đặt ở nhiều vị trí khác nhau. Rất trang trọng, uy nghiêm chen lẫn giữa những thạch bàn sơn tạo.


Vách động trước cửa hang có bài thơ của Ngô Thì Sĩ ( 1726 – 1780) ca gợi vẻ đẹp hùng vĩ của đất trời. Bài thơ có đoạn viết: “ Suối trong tuôn chảy trong hàng trăm mỏm đá như đang trò chuyện. Quay lưng nhình lại ngọn núi phía trước thấy hòn Vọng Phu”.

Ngoài bài thơ trứ danh của Ngô Thì Sĩ. Chùa Tam Thanh Lạng Sơn còn khiến cho du khách du xuân đầu năm mãn nhãn với tượng phật A Di Đà màu trắng, mềm mại, thuần khiết nhưng cũng rất trang nghiêm. Pho tượng được tạc thẳng vào vách đá trong tư thế đứng trong hình lá đề. Tượng Phật mang phong cách kiến trúc và thể hiện một phần nào tư tưởng phật giáo nước ta thời Lê – Mạc. Tượng cao 202cm, rộng 65 cm trong tư thế áo cà sa buôn dài, chân định tuệ, tay chỉ xuống đất.

Bên trong chùa có nhiều dấu ấn văn hóa – lịch sử được thể hiện rõ nét qua nhiều bài thi, phú của các bậc tiền nhân. Điều đặc biệt ở chùa Tam Thanh không chỉ có là nơi thờ tôn tượng Thích Ca và chư Phật. Trong thời kỳ Tam giáo đồng nguyên, có lúc, chùa còn là nơi thờ Khổng Tử và Lão Tử – hai bậc minh triết của Nho giáo và Đạo giáo. Đây có lẽ là điều hiếm có ở bất kỳ một ngôi chùa nào ở Việt Nam.

Vào sau trong hang động, các bạn không khỏi ngỡ ngàng trước không gian tuyệt trần từ những hồ nước trong xanh, thác nước rả rích đêm ngày.

Một trong số đó là hồ Âm Ty, hồ nước đẹp nhất trong quần thể hang động ở Tam Thanh. Quanh năm, hồ Âm Ty quanh có màu nước xanh tươi, được bao phủ và xen cài của muôn trùng nhũ đá.


Nếu  lên xứ Lạng vào những ngày đầu xuân bạn đừng quên tham gia lễ hội chùa Tam Thanh Lạng Sơn vào rằm tháng giêng âm lịch. Tại lễ hội, nhiều nghi thức thực hành văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc thiểu số vùng cao sẽ được tái hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn. Các bạn sẽ có cơ hội tham gia vào các  trò chơi dân gian, đánh cờ người, bi sắt…đầy sôi động và nhộn nhịp.

Chốn tâm linh lặng tiếng chuông đời

Thật khó có thể nói cảm giác thư thái khi đặt chân đến chốn thiền môn sau những chuỗi ngày mệt mỏi, bận rộn vì công việc và mưu sinh.

Mọi lo âu nặng trĩu của nhân tình thế thái, oán hận, bi lụy ở đời nhường như bị xua tan trong phút chốc.  Bước qua cánh cửa Tam Quan lòng hết muộn phiền, đến hồ Âm Ty như thấy “ thiên đường” mở ra.

Cảnh đẹp của tạo hóa cùng với bàn tay của con người luôn ước vọng vào những điều tốt đẹp. Chùa Tam Thanh Lạng Sơn – bình dị mà thoát tục, gần gũi mà thanh cao, khiêm cung mà uy vũ.

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

Bức tranh sơn thủy hữu tình của đền Đông Cuông

Có một ngôi đền từ lâu nức tiếng ở tả ngạn thượng lưu sông Hồng, đó là đền Đông Cuông, tọa lạc ở thôn Bến Đền, xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

Giá trị của đền Đông Cuông không chỉ ở bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng, tâm linh, mà còn hấp dẫn du khách tour lễ hội đầu năm thập thương bởi ngôi đền nằm trong không gian, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Đền Đông Cuông đã được xếp hạng Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia từ năm 2009.


Đền Đuông Cuông còn có tên gọi khác là đền Đông Quang, đền Thần Vệ Quốc. Người xưa đã khéo chọn phương cắm hướng đẹp nhất của vùng thượng lưu châu thổ sông Hồng để xây dựng đền Đông Cuông. Thế đất binh sự-phên giậu nhưng không xa rời thế nhân, nơi đền tọa lạc rất tĩnh tại mà không hề hiu quạnh. Vì thế, vừa bước chân vào khuôn viên ngôi đền, du khách cảm thấy thư thái tâm hồn bởi không gian thoáng đãng, phía sau và bên phải, bên trái ngôi đền là một màu xanh mướt mát của núi rừng, đồng ruộng, cỏ cây, còn phía trước mặt đền là dòng sông Hồng mênh mang nước chảy. Nằm dưới những tán lá sum suê của cây đa ngót 800 tuổi quanh năm tỏa bóng mát, đền Đông Cuông như ở giữa một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình.

Nét độc đáo làm nên vẻ đẹp của Đông Cuông bởi ngôi đền này không chỉ thờ Mẫu Đệ nhị Thượng ngàn, mà còn thờ các thần Vệ quốc-các vị thần người bản địa đã có công giúp dân dẹp giặc Nguyên-Mông như Hà Đặc, Hà Chương, Hà Bổng… Một số người địa phương thuộc nghĩa quân Tày, Nùng, Dao tham gia khởi nghĩa chống Pháp (những năm 1913-1914) thất bại, bị chính quyền Pháp giết hại cũng được người dân bản địa tôn thờ tại đền Đông Cuông.

Trong tâm thức của người dân nơi đây, Mẫu Thượng ngàn đã trở thành con người thực, gắn liền với sông núi, hóa thân thành thần bản địa để nâng đỡ, che chở cho đồng bào các dân tộc trong vùng, vì thế bà con luôn coi Đông Cuông là một ngôi đền linh thiêng. Đền Mẫu Thượng ngàn Đông Cuông nằm trong trục văn hóa tâm linh dọc sông Hồng, gồm đền Mẫu Âu Cơ (Phú Thọ), đền Mẫu Đông Cuông (Yên Bái) và đền Bảo Hà (Lào Cai). Người dân vùng thượng lưu sông Hồng có câu ca lưu truyền: “Thứ nhất là hội Đền Hùng, thứ nhì là hội Đông Cuông” để nói lên tính chất đông vui, nhộn nhịp của hai lễ hội truyền thống trong vùng. Hằng năm, Lễ hội đền Đông Cuông Yên Bái được tổ chức vào ngày Mão đầu tiên của tháng Giêng và tháng Chín (âm lịch), vật tế là trâu trắng (tháng Giêng) và trâu đen (tháng Chín). Ngoài phần lễ, phần hội được tổ chức với nhiều trò chơi dân gian truyền thống như múa dân gian, hát chèo, diễn tích, ném còn, đánh vật... với ước vọng cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống an lành.


Trong khuôn khổ các hoạt động Năm Du lịch Quốc gia 2017-Lào Cai-Tây Bắc với chủ đề “Sắc màu Tây Bắc”, trong hai ngày 20 và 21-5-2017, tại đền Đông Cuông, UBND tỉnh Yên Bái đã tổ chức Festival Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thượng ngàn lần đầu tiên, thu hút sự tham gia của 54 bản hội đến từ 19 tỉnh, thành phố trong cả nước. Nhiều hoạt động tại Festival này đã quảng bá, giới thiệu rộng rãi những nét văn hóa đặc sắc của đền Đông Cuông nói riêng và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt-Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nói chung, như: Carnaval thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu; thực hành 36 giá đồng; triển lãm, trưng bày tranh, ảnh, thực hành nghi lễ thờ Mẫu, các nghi lễ của các dân tộc trong vùng; trình diễn trang phục khăn chầu áo ngự...

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

Nét uy nghi tinh xảo của dinh thự họ Vương Hà Giang

Nằm ở phía sau con đường bên hàng cây sa mộc cao vút, chiếc cổng đá bề thế của Dinh Thự Họ Vương hay còn gọi là dinh thự vua Mèo Vương Chính Đức - vị vua duy nhất được người Mông nơi đây suy tôn, và cai quản 4 huyện Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn ở Sà Phìn hiện ra ngay trên đỉnh đồi.


Tương truyền vào năm 1913 có một thuộc hạ của Vương Chính Đức tên là Cư Trồng Lù gợi ý thủ lĩnh nên thay đổi nơi ở. Theo ông này thì nơi đang ở chân núi cao, cạnh hẻm núi không hợp tuổi của vua nên bất lợi cho hậu thế sau này. Nghe vậy, họ Vương đã đi sang Trung Quốc để tìm thầy phong thủy sang Việt Nam. Vua đã dẫn thầy phong thủy đi qua cả 4 huyện trong khu vực cai quản của mình, cuối cùng thầy quyết định dừng tại thông Sà Phìn, với địa thế nằm giữa thung lũng Sà Phìn. Nơi đây có một khối đất nổi lên cao ví như mui con rùa, tượng trưng cho thần kim quy, nếu xây dinh tại đây thì sự nghiệp sẽ thành công.

Dinh thự này có tuổi đời gần 100 năm, chi phí tốn 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ đồng hiện nay. Được xây dựng từ những thợ giỏi tay nghề và hàng vạn nhân công xây dựng trong 9 năm, xây từ 1919 đến 1928 thì hoàn thành.

Trước cổng vào Dinh thực du khách tour du lịch Hà Giang sẽ thấy hai hàng sa mộc đứng uy nghiêm, rắn chắc như những lính gác bảo vệ sự an toàn cho vua ở ngay lối dẫn vào dinh. Bao quanh khu dinh thự là một dải núi cao, tạo nên địa thế hình vòng cung ôm lấy toàn bộ ngôi nhà.

Toàn bộ Dinh thự có diện tích gần 3000m vuông, mang 3 nền kiến trúc văn hóa khác nhau: Trung Quốc, người Mông và Pháp. Ngôi nhà có 4 nhà ngang, 6 nhà dọc, được chia thành tiền dinh, trung dinh và hậu dinh có 64 buồng được xây 2 tầng tường bằng đá xanh.


Mái vách bằng gỗ thông và ngói làm từ đất nung. Lạc lối trên những phiến đá hoa cương có chạm khắc hoa văn ngay lối dẫn vào Dinh thự, mái nhà cong uốn lượn, trạm khắc tinh xảo, nhiều hoa văn.

Du khách du lịch Hà Giang 3 ngày 2 đêm sẽ được lần lượt khám phá khu tiền dinh - nơi ở của lính canh, lính hộ vệ và nô tỳ. Ở giữa khu Tiền và Trung có một sàn gỗ, chính là vực xét xử của cụ Đức. 

Trung dinh và Hậu dinh là nơi ở, làm việc của thành viên trong gia tộc họ Vương. Khu Trung hiện nay còn lưu nhiều bức ảnh của gia tộc, cũng là nơi thờ cúng tổ tiên.

Từ đỉnh đèo nhìn xuống hay trực tiếp đến nơi thì Dinh họ Vương vẫn nổi bật với lối kiến trúc đặc sắc giữa một thung lũng heo hút. Khu dinh thự này được Nhà nước công nhận là Di tích quốc gia năm 1993, sẽ là địa điểm khám phá thú vị cho khách du lịch.

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2018

Thắng cố - Món ăn đặc trưng độc đáo của Hà Giang

Thắng cố là món ăn truyền thống lâu đời, thường được người Mông làm vào các ngày lễ hội, lễ ăn thề bảo vệ rừng, những ngày có đông người như hội làng bản hay các buổi gặp mặt trong dòng họ… Ở các phiên chợ vùng cao các bếp nấu thắng cố bao giờ cũng thu hút được nhiều thực khách...

Đã bước vào đông, trời lành lạnh. Ra đường đã thấy người Hà Nội bắt đầu diện quần áo rét, trông thật thích mắt. Ngồi giữa thủ đô ăn một bát phở bò hôi hổi nóng, tôi chợt thèm cái rét cắt da cắt thịt ở vùng cao phía Bắc và bát thắng cố của người Mông mà trong đời mới chỉ được một hai lần thưởng thức.


Nói đến các món ăn độc đáo và truyền thống của đồng bào các dân tộc, ví như món phở của người Kinh, thì không thể không nói đến món thắng cố của người Mông. Thắng cố nghĩa là canh thịt, là món ăn được chế biến từ thịt bò, thịt trâu, thịt ngựa và cả thịt lợn. Tất cả các bộ phận thuộc “lục phủ ngũ tạng” của con vật, từ lòng, tim, gan, phổi, tiết, thịt… đến xương đều được cho vào chảo nước đun nhừ cùng các loại gia vị như thảo quả, quế, hồi… theo phong tục truyền thống của đồng bào Mông. Thường thịt, tiết, lòng được luộc chín, sau đó thái nhỏ vuông quân cờ thả vào chảo. Khi ăn, chảo vẫn để trên bếp đun, ăn đến đâu múc ra bát đến đó. thực khách du lịch Hà Giang có thể ăn thêm các loại rau, thường là rau cải rất sẵn ở vùng cao.

Thắng cố là món ăn truyền thống lâu đời, thường được người Mông làm vào các ngày lễ hội, lễ ăn thề bảo vệ rừng, những ngày có đông người như hội làng bản hay các buổi gặp mặt trong dòng họ… Ở các phiên chợ vùng cao các bếp nấu thắng cố bao giờ cũng thu hút được nhiều thực khách, không chỉ có người Mông đến thưởng thức món ăn truyền thống của mình mà hầu như người dân tộc nào đến chợ cũng muốn vào đây để ăn thắng cố, nhiều người không hẳn “nghiện” món ăn này mà chỉ ăn “một lần cho biết”.

Cách đây cũng đã trên 40 năm, năm 1976, vợ chồng tôi từ Nha Trang ra Hà Nội rồi lên thăm vợ chồng một người bạn thân cùng học hồi cấp 2, từ những năm 1957-1959 ở Hà Nội. Khi ấy vợ chồng anh bạn là giáo viên dạy học ở huyện miền núi Bắc Hà, Lào Cai. Vợ chồng anh bạn đưa vợ chồng tôi đi chơi chợ phiên Bắc Hà để biết không khí chợ phiên ở vùng cao và nhất là để ăn thắng cố, món ăn tuy tôi đã biết tiếng nhưng chưa một lần được thưởng thức. Đó là lần đầu tiên tôi được ngồi xổm quanh chảo thắng cố nấu bằng thịt ngựa, khách quanh mình có đủ cả người Kinh, người Mông, người Dao… cùng hít hà, cùng sì sụp, cùng nhấp môi bát rượu trắng Bắc Hà ủ bằng men lá, cứ nhè nhẹ, êm êm mà say đứ đừ.


Ăn thắng cố mà rượu uống không say, mà không biết hò, biết hát như người Mông thì chưa thật vui. Tôi không quá say, không chân nam đá chân xiêu, hay say đến mức không còn biết gì nữa như anh bạn người Mông phải nằm ngay bên chảo thắng cố để chờ vợ vực dậy, cho nằm vắt ngang mình ngựa giắt về. Nhưng lần ấy tôi say đủ để nhớ đến tận bây giờ cái thú được hít hà bát nước béo ngậy thơm mùi thảo quả nghi ngút hơi nước và cả hơi sương từ núi cao giữa ngày giá lạnh của món thắng cố và cái vị rất lạ của rượu trắng Bắc Hà ủ bằng men lá lần đầu tiên được thưởng thức trong đời.

Sau này, cái thứ rượu trắng ủ bằng men lá ấy một lần nữa cũng làm tôi ngây ngất say. Ấy là lần lên Hà Giang, chưa kịp đến Lũng Cú, Đồng Văn như dự định nhưng tôi lại được mấy cô gái người Tày, người Sán Chí mời uống rượu ngô ủ bằng men lá đến độ ngà ngà say nhưng còn đủ tỉnh táo để viết bốn câu thơ này:

Lại lỗi hẹn với Lũng Cú, Đồng Văn
Chưa đến được với Yên Minh, Quản Bạ
Có phải rượu em ủ bằng men lá
Ngấm vào anh để lần nữa quay về?

Lần thứ hai tôi được ăn thắng cố cách đây cũng đã 27 năm. Đó là năm 1990 tôi có một chuyến đi dọc các tỉnh miền núi Tây Bắc, được mấy người bạn làm báo ở Lai Châu rủ đi ăn thắng cố ở ngay trong chợ thị xã, cái thị xã cũ nằm bên dòng sông hay bị lũ lụt chứ không phải là thị xã mới chuyển đến bây giờ. Nhưng quả thật lần ăn thắng cố này tôi không còn thấy ngon như lần trước, có lẽ không phải là món ăn không ngon mà là thiếu cái “không khí ăn ngon”, dân dã bên chảo thắng cố mà lần đầu tôi được thưởng thức. Đó không phải là cái không khí của chợ phiên vùng cao, thuần chất dân tộc, đến chợ phải qua những con đường núi cheo leo, khúc khuỷu, gập ghềnh mà lại là không khí ăn uống của thị thành, đã nhuốm màu của kinh tế thị trường.

Cách đây đã mấy năm, có dịp lên Hà Giang, được đến Cột cờ Quốc gia Lũng Cú và thăm thị trấn Đồng Văn tôi được biết ở thị trấn nhỏ bé trên vùng cao nguyên đá được Tổ chức Văn hoá Khoa học Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Công viên địa chất thế giới này, hàng tháng có một đêm hội vui của đồng bào thị trấn và tại đó mọi người đều được mời ăn thắng cố miễn phí. Đó là do sáng kiến của chính quyền và ngành văn hoá địa phương, vận động các doanh nghiệp trong tỉnh và huyện luân phiên hỗ trợ tài chính mỗi tháng cho một xã trong huyện để tổ chức Đêm hội thắng cố vào tối 15 hàng tháng ở ngay trong khu chợ thị trấn Đồng Văn. Đêm lễ hội đó mọi người đều được cùng nhau hát hò và từ 9 giờ tối trên hai dãy bàn cuối chợ là những đĩa thịt nướng, những bát thắng cố được bày ra, mọi người bên nhau vừa uống rượu vừa ăn thắng cố không phải trả tiền, vui vẻ như đến nhà người thân dự lễ họp mặt với gia đình.


Phải nói không khí lễ hội này không còn giống không khí lễ hội và chợ phiên truyền thống của đồng bào Mông như tôi từng thấy ở chợ phiên Bắc Hà mấy chục năm trước. Nó có những nét hao hao giống nhiều lễ hội vùng cao khác bởi “hơi hướng kinh tế thị trường” đã len lỏi vào. Phổ biến nhất vẫn là hàng hoá tràn ngập, tiếng nhạc xập xình, những bài hát mới theo thể loại nhạc Rok, nhạc Pop thời thượng của giới trẻ người Kinh hiện nay… Nó vắng tiếng sáo Mông thật trầm, thật buồn, thật vang vọng, du dương, mà mỗi lần được nghe nó tôi như được thấy mình đang lang thang đâu đó trên những đỉnh đèo của bạt ngàn gió núi vùng cao Tây Bắc xa xôi. Nó vắng cả tiếng khèn và những điệu múa của các đôi trai gái người Mông, điều làm nên nét độc đáo của các phiên chợ vùng cao, ngoài những chảo thắng cố truyền thống không thể thiếu.

Vì thế, tôi không lấy làm lạ, như là một cảnh trái ngược, trên dãy phố ngay cạnh chợ Đồng Văn, nơi có hai dãy bàn bày thịt nướng và những bát thắng cố ăn miễn phí, uống cùng rượu ngô men lá, là những quầy hàng bán điện thoại di động và đồ điện tử “hoành tráng” với đèn quảng cáo xanh đỏ tim vàng và quán cà phê thời thượng dành cho “khách du lịch Tây” và khách tour Hà Giang 3 ngày 2 đêm sành điệu người Việt từ khắp nơi đến thăm, giá mỗi ly cà phê gần gấp rưỡi ly cà phê ở Hà Nội! Nhưng, dù không còn giữ được “nguyên bản” của không khí lễ hội truyền thống, không có cảnh quây quần sì sụp bên bếp lửa đỏ rực của những chảo thắng cố truyền thống của người Mông thì ở Đồng Văn vẫn còn những Đêm lễ hội thắng cố hàng tháng, miễn phí cho mọi người tham gia. Âu cũng là một nét đẹp văn hoá ẩm thực giữa thời buổi kim tiền này. Không biết ngoài Đồng Văn thì còn đâu tổ chức được những đêm lễ hội thắng cố miễn phí như thế?

Mùa đông lạnh giá này, bất giác tôi lại ước muốn được trở lại Bắc Hà, Lào Cai hay Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang để được ngồi bên bếp lửa hồng sì sụp, hít hà bát thắng cố thay cho bát phở tái gầu quen thuộc giữa phố xá thủ đô nêm chặt người này!

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

Vẻ đẹp thiên tạo đầy quyến rũ của hố Giang Thơm

Con đường nhỏ từ thị trấn Núi Thành dẫn xuống bãi Rạng (xã Tam Quang, Núi Thành, Quảng Nam) như kéo dài nỗi khát khao tận hưởng sắc trời của biển. Nếu không theo đường này, thì dong thuyền theo dòng Trường Giang, xuôi ra cửa bể rồi quanh vào Rạng, bạn sẽ ngập trong màu xanh bất tận của sông biển và bất ngờ trước dáng ông Đụn, bà Che tím một khoảng trời…. Từ thị trấn Núi Thành, nếu chưa vội chu du xuống biển, du khách bỏ chút ít thời gian ngược chừng 7km về hướng Tây, đến với một thác núi đẹp hoang sơ mà thiên nhiên ưu đãi ban tặng. Thác Hố Giang Thơm luyến lưu những du khách du lịch Quảng Nam Đà Nẵng thích sự lãng mạn và cũng đủ thách thức sự mạo hiểm khám phá.


Nằm cách quốc lộ 1A khoảng 10km về phía Tây, thuộc địa bàn thị trấn Núi Thành, huyện Núi Thành. Hố Giáng Thơm là một thắng cảnh đẹp nổi tiếng của tỉnh Quảng Nam.Vào những ngày hè oi bức, người dân huyện Núi Thành cũng như nhiều nơi khác thường tìm về Hố Giang Thơm để tắm mát trên những dòng suối trong lành.

Hố Giáng Thơm được kiến tạo bởi những dải đá nổi chìm chạy dài suốt gần 01 km, ở đầu nguồn có một con suối nhỏ, nước từ trên cao đổ xuống, tạo ra những thác nước rì rào suốt ngày đêm. Ngay dưới chân những thác nước, những dòng chảy đã tạo thành những vũng nước sâu, ở đây nước luôn trong xanh, từ trên cao nhìn xuống, cảnh vật như được thu nhỏ lại trong một tấm gương soi dưới dòng nước. Tất cả hòa quyện với những áng mây và sương trời, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình, mà mỗi một du khách khi đặt chân tới đây đều phải ngẫn ngơ trước vẻ đẹp hoang sơ, đầy chất trữ tình mà thiên nhiên đã ban tặng cho Hố Giang Thơm; thêm vào đó khí hậu của Giang Thơm mát mẻ, cho du khách vào những ngày hè nóng bức.

Khu vực Giáng Thơm có ba hố nước, phân cách nhau bởi những mỏm đá lồi và cao, ở đây có những tảng đá rộng, dụa sát vào vách núi, nơi khách tham quan có thể đứng lại để nghỉ ngơi, ngồi ngắm cảnh, thả hồn theo tiếng suối sau những giờ thả bộ viếng cảnh Giang Thơm. Suốt dọc theo con suối là những triền đá nhấp nhôm, lởm chởm, hấp dẫn những du khách du lịch hè 2018 tìm cảm giác lạ đến đầu nguồn con suối.


Hố Giáng Thơm được người dân gọi là Hồ Xen Thơm, Dân Thơm, Thác Hố Giang Thơm hay thác 11 tầng. Riêng với "phượt thủ" hay những người thích khám phá, thác còn có một tên khác ngộ nghĩnh không kém, thác Gian Nan. Có tên như vậy bởi đường lên thác không đơn giản là rong xe máy hay ô tô thẳng vào đến nơi, mà mỗi người phải vật vã chiến đấu với con đường đất đầy lầy lội, với những tảng đá trơn trượt, những con dốc chênh vênh, với cả cách đi nhắm hướng mà đến chứ không có bất kỳ bảng chỉ dẫn hay nhà dân nào để hỏi thăm.

Bù lại nỗi vất vả suốt chặng đường đến với thác, ngay khi đặt chân đến với Hố Giáng Thơm, những cảm giác mệt mỏi dường như sẽ tan biến bởi âm thanh sôi động của thác và suối. Phía xa, con suối đầu nguồn đổ xuống các tảng đá tạo thành những ngọn thác đẹp quyến rũ. Ở đoạn trũng, suối hình thành những hồ nhỏ phẳng lặng, trong vắt. Giữa cảnh vật thiên nhiên thơ mộng, đôi khi du khách phải dừng bước ngẩn ngơ bởi vẻ hoang sơ kỳ diệu của thiên nhiên đã ban tặng cho con người.

Đến với Hố Giáng Thơm mỗi người có một cảm xúc và cách biểu hiện rất riêng. Người lãng mạn thì thả mình trên những tảng đá, tai nghe tiếng gió xào xạc, tiếng nước chảy, tiếng chim hót, miệng thì thầm vài ca khúc yêu thích. Người có tâm sự thì không đợi gọi mời, lập tức hòa mình trong hồ nước trong xanh, mát lạnh, thả trôi mọi phiền muộn lo lắng.


Với những người thích cảm giác mạnh có thể leo lên các mõm đá nhấp nhô để chinh phục những ngọn thác cao. Trên đầu nguồn con suối, một hồ nước phẳng lặng hiện ra như gọi mời. Khác với phía dưới luôn ào ào thác đổ, tại đây rất yên vắng và gần gũi với những ai muốn đi tìm một khung cảnh tĩnh mịch và thi vị giữa thiên nhiên hoang dã.

Hố Giang Thơm thực sự là địa điểm lý tưởng cho loại hình du lịch sinh thái, dã ngoại. Tuy đường xa nhưng vào mùa hè, lượng khách đến đây vui chơi đến hàng trăm người mỗi ngày. Điều đó chứng tỏ Hố Giang Thơm có sức hút thực sự với người dân. Chẳng những người địa phương biết đến Hố Giang Thơm, nhiều bạn trẻ từ nơi khác cũng tìm về đây tham quan nghỉ ngơi.

Với vẻ đẹp thiên tạo đầy quyến rũ của Giang Thơm hòa quyện với những áng mây và sương sớm, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình, mà mỗi một du khách khi đặt chân tới đây đều phải ngẩn ngơ trước vẻ đẹp hoang sơ, đầy chất trữ tình mà thiên nhiên đã ban tặng cho Hố Giang Thơm.

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2018

Giá trị văn hóa lịch sử hấp dẫn độc đáo của chùa Xà Tón

Chùa Xà Tón là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng không chỉ của An Giang mà còn của cả nước. Chùa Xà Tón được xây dựng cách nay khoảng 300 năm, trên một khu đất rộng nằm ngay trung tâm thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

Theo lời kể, thuở đó, vùng này còn là khu đất hoang vu, cây cối rậm rạp. Trên những ngọn cây, từng đàn khỉ chuyền cành, đôi lúc chúng còn cả gan chọc ghẹo, níu kéo khách qua đường. Cảnh quan đẹp, u nhã xứng đáng là nơi thờ tự tôn nghiêm, nên đồng bào Khmer quyết định chọn khu đất này làm nơi lập chùa. Đầu tiên chùa được xây bằng gỗ, lợp lá, nền đất đơn sơ. Với đặc thù có nhiều khỉ sinh sống và thường hay níu kéo khách tour miền Tây 4 ngày 3 đêm nên chùa được đặt tên theo tiếng Khmer là Xrayton (Xray là khỉ và ton là kéo). Xrayton đọc âm là Xà Tón. Tên gọi Xà Tón này một thời gian dài còn dùng gọi luôn tên thị trấn và tên huyện lỵ miền biên giới này cho đến khi đổi lại là Tri Tôn.


Chùa Xà Tón là một ngôi chùa thờ Phật theo phái Tiểu thừa của đồng bào Khmer Nam bộ. Cũng giống như bất cứ ngôi chùa Khmer Nam bộ khác, chùa Xà Tón được các vị sư cho xây dựng lần hồi, theo kiểu “tàm thực”. Nghĩa là khi con sóc (bổn đạo) quyên cúng tiền đến đâu thì chùa được tiến hành xây cất đến đó cho tới khi hoàn tất. Năm 1896 và năm 1933, chùa Xà Tón được xây dựng lại bằng gạch ngói, cột gỗ căm xe, nền chùa bằng đá xanh vôi ô dước (cao 1,8 m), theo kiến trúc cổ truyền của người Khmer Nam bộ. Chính điện nằm ngay trung tâm khuôn viên chùa, mặt quay về hướng Đông Tây, nóc nhọn và hai mái cong gộp lại gợi hình ảnh rắn thần Naga (tượng trưng cho sự bất diệt và dũng mãnh) nằm dài. Mái chùa được cấu trúc hình tam cấp ngói đỏ, xanh, vàng. Trong ánh nắng, lớp mái ngói này hừng lên một sắc màu đẹp mắt. Quanh ngôi chính điện có khá nhiều những ngôi tháp nhỏ màu sắc rực rỡ. Trên đỉnh các ngôi tháp này đều được chạm tượng thần Bayon (thần Bốn Mặt, thần Sáng Tạo) bằng đá. Đây là nơi thờ tự hài cốt của các vị sư trụ trì đã viên tịch. Phía trước chính điện có một ao rộng trồng sen và súng phủ bóng mát một hàng dừa. Những khi sen và súng nở bông, cả mặt ao rực màu hoa phớt đỏ lá xanh non, rất đẹp. Cạnh hàng dừa có một tượng Phật lớn được tạc trong thế thiền định dưới bóng cây lâm vồ. Cây lâm vồ này, theo các sư, có tuổi thọ trên trăm năm, gốc khoảng mười người ôm, cành lá xum xuê, mát rượi.

Trong chính điện có 4 hàng cột bằng gỗ căm xe, mỗi hàng có 7 cây cột. Nền chùa lát gạch bông, tường gạch vôi ô dước. Trên các vách tường là các bức bích họa nhiều màu sắc tái hiện một phần Phật thoại. Đặc biệt, ở một bên vách, có một tượng Phật lớn bằng xi măng, thể hiện cảnh Phật ngồi kiết già trên bệ cao với nhiều tượng gỗ sắp xếp xung quanh. Chính điện chùa là nơi hành lễ và thuyết pháp của các sư đối với con sóc. Trong khuôn viên chùa còn có một số dãy nhà khác gồm: nhà khách, hội trường, nhà tăng lữ, nhà bếp... Các dãy nhà này xây nhỏ hơn chính điện nhưng nhà nào cũng có hai mái cong gộp lại, nóc nhọn, hai bên mái tạc đuôi rắn thần Naga.   

Hiện nay, chùa Xà Tón còn lưu giữ trên 100 bộ kinh bằng chữ Phạn được viết trên những chiếc lá buông mà người Khmer gọi là bộ sách “Sa Tra”. Chính vì vậy mà vào năm 2006 chùa đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục giữ nhiều sách kinh lá có tại Việt Nam. Trước đó, năm 1986, chùa Xà Tón được Bộ Văn hóa công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.


Cũng giống như các ngôi chùa Khmer khác, theo truyền thống, chùa Xà Tón ngoài thờ Phật còn là trung tâm văn hóa, nơi gìn giữ những phong tục, tập quán, kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật cổ truyền của đồng bào Khmer. Ngoài những cuộc lễ nhỏ, mỗi năm chùa Xà Tón còn tổ chức 5 lễ lớn là: Chol Chnam Thmay (tết mừng năm mới) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch. Lễ Pi-sát bô-chia vào ngày rằm tháng 4 âm lịch nhằm nhớ ơn Phật tổ (ngày Phật đản sinh). Lễ Chôl Neasa là lễ cấm ba tháng sư không ra khỏi chùa (từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9 âm lịch). Lễ Kà Thận là lễ sắm quần áo cho sư cùng các vật dụng cho nhà chùa hoặc cho trường học địa phương. Đặc biệt nhất là lễ Dolta (còn gọi là Pha chun bênh), lễ ông bà (giống như lễ Thanh minh), kéo dài từ mồng 1 đến 15 tháng 10 âm lịch. Suốt những ngày này, con sóc mang bánh tét, hoa quả, cơm canh đến chùa cúng tế để tỏ lòng biết ơn người quá cố cũng như cầu an, cầu phúc cho gia đình...

Với nhiều lễ hội truyền thống ấy, với vị trí địa lý thuận lợi, với giá trị lịch sử văn hóa dân tộc, chùa Xà Tón là điểm tham quan hấp dẫn của hầu như tất cả mọi du khách du lịch miền Tây Nam Bộ đi đến khu vực này.

Thứ Tư, 8 tháng 8, 2018

Vẻ đẹp hài hòa say đắm lòng người của Hà Tiên

Hà Tiên lâu nay vẫn được gọi là “thập cảnh” bởi có rất nhiều cảnh đẹp khác nhau cùng vươn ra biển khơi lộng gió, ngày cũng như đêm. Thiên nhiên đã ưu đãi cho Hà Tiên một tổng thể biển, đảo và bờ biển hài hoà ít có ở đâu quyện lẫn với nhau thiên thời - địa lợi - nhân hòa như thế.

Thiên nhiên đã ưu đãi cho Hà Tiên một tổng thể biển, đảo và bờ biển hài hoà ít có ở đâu quyện lẫn với nhau thiên thời - địa lợi - nhân hòa như thế. Đó là quần thể từ thế núi cao ăn men sát mé biển; biển xanh, đảo rộng và đẹp, và cả đồng bằng cùng kết hợp thành một vùng vừa đẹp như tên gọi xứ sở Hà Tiên hơn 300 năm trước, vừa say đắm lòng người.


Từ trung tâm thành phố Rạch Giá, đi khoảng 800m là đến dãy núi Lăng. Tại đây có Ao Sen dưới chân núi - một công trình thuỷ lợi kết gắn tình nghĩa của bà con Kinh - Khmer chung sức chung lòng làm ra, có từ thời Mạc Thiên Tích, cuối thế kỷ XVIII, nơi trữ nước sinh hoạt quý giá cho người dân quanh cả vùng. Di tích này còn là nơi an táng của người khai sáng ra vùng đất – dòng họ Mạc Cửu làm rạng rỡ tên đất, tên người Hà Tiên, được nhân dân gần 300 năm trước rất tôn trọng, cho công khai khẩn vùng đất từ hoang vu thành sầm uất như hôm nay.

Đền thờ dòng họ Mạc - vào mở mang vùng đất Hà Tiên - được gọi là miếu Lệnh. Lăng Mạc Cửu và đền thờ do Mạc Thiên Tích, người thiết kế, được xây dựng khỏang từ năm 1735 - 1739. Ngôi mộ lớn nhất của Mạc Cửu có hình bán nguyệt ăn sâu vào núi. Nơi chôn hài cốt Mạc Cửu được đúc bằng đá vôi, cát, đường và nhựa ô dước quý mà dân dã cách đây gần 300 năm. Du khách du lịch Hà Nội Phú Quốc 4 ngày 3 đêm lên đây viếng lăng dòng họ Mạc cũng thấy kỹ thuật xây đúc mộ từ hơn 200 năm trước, giờ con cháu đâu có thể vượt qua. Trên núi Lăng, phía trước hai bên mộ có hai tượng tướng cầm gươm đứng hầu bằng đá xanh. Nay hai bức tượng đó bị trộm cưa mất và được đúc lại bằng xi măng, có kém đi về thẩm mỹ. Lăng mộ Mạc Cửu được đặt đúng theo thuật phong thổ: tiền án là núi Tô Châu, hậu chẩm là núi Bình Sơn, trước lăng có dòng lưu thuỷ đó là Đông Hồ, phía tả là núi Bát Giác, phía hữu là núi Pháo Đài có tên chữ là Đại Kim Dự. Mặt lăng mộ quay về hướng Đông, lưng tựa núi hai bên theo thế tì lưng an tọa. Khu mộ rất kiên cố vượt qua thời gian, nên dù gần 300 năm nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc ban đầu, cổ kính mà trang trọng, quyến rũ; hầu hết các bia mộ đá từ xưa thế nhìn ra biển mà vẫn đầy nguyên vẹn gần 300 năm.


Qua sân đá "Bái Đình" hình bán nguyệt viếng mộ Mạc Cửu xong, ta đi thăm các lăng mộ khác ở rải rác khắp các triền núi Bình Sơn như lăng mộ Mạc Thiên Tích, Nguyễn Thị Hiếu Túc (vợ Mạc Thiên Tích)... được khoét sâu vào triền núi, thế nhìn ra biển khơi. Trên đỉnh núi Lăng có nền Xã Tắc, nền Xuyên Sơn. Tục truyền, thời Mạc Thiên Tích, hàng năm vào ngày 9 tháng giêng âm lịch thường diễn ra lễ tế trời, tế thần núi, thần sông tại nền Xuyên Sơn và tế các chiến sĩ vong trận tại nền Xã Tắc, cho núi thần, biển xanh Hà Tiên cứ còn mãi ngàn xuân.

Con đường do tỉnh Kiên Giang mới mở chạy quanh chân núi Đèn có bờ biển xanh thẳm tuyệt đẹp, nối liền đến tận khu du lịch Mũi Nai, là điểm cuối trên đất liền của biên giới Việt Nam - nơi tiếp giáp vùng biển 3 nước Việt Nam – Cam-pu-chia – Thái Lan. Trên đỉnh núi Đèn, vẫn còn đó ngọn hải đăng hơn trăm năm tuổi, vẫn hằng đêm rọi sáng dẫn đường cho các con tàu từ biển đi,về.

Từ Mũi Nai ra xa bờ chừng vài trăm mét có rất nhiều đảo nhỏ, đảo lớn của quần đảo Bình Trị và Hải Tặc. Hai quần đảo này cũng là nơi du lịch rất lý tưởng trong tuyến du lịch biển - đảo. Từ ngoài biển nhìn vào mũi đất này giống hệt cái đầu của một chú nai chà nằm nghểnh ra biển. Khi du khách tour đi Phú Quốc 3 ngày 2 đêm tắm xong mệt, đói thì vào quán bình dân trên bãi gọi vài thứ thức ăn biển, thật khó mà chê.


Về Hà Tiên, có một điều thú vị nữa là Chợ đêm Hà Tiên. Ở nơi cuối nguồn đất nước có nhiều thứ lạ mà gần gũi với bà con ta. Trong chợ có nhiều dãy hàng tạp hoá đủ chủng loại từ mỹ phẩm, vải vóc màu sắc sặc sỡ đến những món hàng mỹ nghệ bằng đá, vỏ ốc, thuỷ tinh, nhựa cho đến trang sức bằng vàng và đá quý, bày bán ngay trên vỉa hè. Quán hàng ăn đêm với đủ món bình dân: cháo trắng với cá cơm kho khô, hủ tiếu Nam Vang hải sản, bún kèn dừa - món ngon độc đáo của người Khmer. Những quán rượu ven đường bán mấy món nhậu đơn giản như khô cá đuối, khô cá khoai, khô mực, ốc biển, sò huyết... kèm với cóc, ổi, xoài rất bình dân, ai mua cũng vừa lòng. Tại chợ có một số quán ăn, phục vụ cho du khách suốt đêm.

Nếu nói du lịch biển, thì đây là vùng đất trời cho của Hà Tiên và cả tỉnh Kiên Giang. Đây cũng là thế mạnh mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Kiên Giang thấy rõ, nên hàng năm, mùa du lịch sau tháng giêng và những tháng hè, du khách từ mọi miền đến đây trung bình mỗi ngày có trên 4.000 – 5.000 người. Bây giờ đường bay từ Sài Gòn ra Phú Quốc thuận tiện, đường biển từ Hà Tiên ra Phú Quốc ngày có mấy chuyến, nên biển Hà Tiên và các đảo Kiên Giang đang ngày một chứng tỏ thế mạnh của kinh tế biển.


So với các tỉnh có biển ở Nam Bộ, Hà Tiên và tỉnh Kiên Giang là nơi có nhiều thế mạnh. Những năm gần đây, đã thu hút đông đảo nhất lượng khách của mọi miền, kể cả từ Thái Lan, Cam-pu-chia. Mỗi năm có gần 2 triệu  lượt người đã đến thăm thú, du lịch biển tại Hà Tiên – Phú Quốc. Thế mạnh này của tỉnh càng phát huy khi gần đây Chính phủ đã có quy họach chính thức về phát triển toàn diện của quần đảo Phú Quốc. Hy vọng rằng, trong thời gian không xa, tiềm năng biển và hải đảo Kiên Giang - Hà Tiên ngày càng được Đảng bộ, Chính quyền tỉnh chú ý phát huy, để thế mạnh trên 300 km bờ biển, hải đảo, quần đảo Phú Quốc, nơi cuối cùng của vùng đất phương Nam, ngày càng là điểm hẹn đầy lý thú của du khách quốc tế, trong nước đến thăm.

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018

Điện Voi ré - Công trình độc đáo bên trong kinh thành Huế

Nhiều du khách đến Huế không biết rằng nơi đây có một điện thờ voi, suy tôn lòng trung thành của một con vật dũng cảm trong các trận chiến.

Điện Voi Ré được xây dựng trên một diện tích chừng 2.000 m2 tại đồi Thọ Cương, thôn Trường Đá, phường Thủy Biều, TP Huế, dưới thời vua Gia Long.

Nhà nghiên cứu Dương Phước Thu cho biết, điện Voi Ré không phải là di tích có kiến trúc nổi trội so với nhiều nơi khác ở Huế, tuy nhiên điện mang ý nghĩa đặc biệt bởi đây là nơi suy tôn lòng trung thành của những con voi chiến triều Nguyễn. Công trình độc đáo này không chỉ mang tính lịch sử mà còn đề cao tinh thần trọng tình, trọng nghĩa, mang đậm tính nhân văn của con người Việt Nam xưa.


Điện được xây dựng theo kiến trúc chữ "môn", bên ngoài có vòng la thành xây bằng gạch. Phía trước cổng tam quan có hệ thống đi lên gồm 17 bậc; bên trên chính giữa ở lối chính có ba chữ Hán bằng sành "Nghiễm Nhược Lâm". 

Thẳng theo lối chính, trước khi du khách du lịch hè 2018 vào đến sân miếu, là bức bình phong Long Mã. Miếu Long Châu nằm ở trung tâm theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, gồm năm gian hai chái, mái lợp ngói liệt, tiền đường kiểu vỏ cua. Bên trong trang trí bằng hệ thống liên ba bằng gỗ với 104 ô hộc chủ yếu là chữ Thọ theo lối triện và hoa lá chim muông. Chính giữa ngôi miếu là một bức hoành phi khắc nổi ba chữ Hán màu vàng "Long Châu Miếu".

Hai bên miếu Long Châu là Đông Phối Điện và Tây Phối Điện, đây là nơi thờ những con voi lập được nhiều chiến công trận mạc vào thời kỳ xây đế nghiệp của triều Nguyễn, cũng là nơi khoản đãi quan khách sau khi tế lễ. Trước hai ngôi nhà này, còn có hai tòa miếu phụ còn được gọi là miếu Tượng.

Trong cuốn Từ điển lịch sử Thừa Thiên – Huế do Tiến sĩ Đỗ Bang chủ biên xuất bản năm 2000, điện Voi Ré trước đây thờ 15 bài vị các vị thần bảo hộ lính nhưng hiện nay, trong miếu chỉ còn lại bài vị của 4 vị thần là: thần Thiên Sư, thần Chúa Động, thần Hồng Nương, thần Tiền Hậu Khai Khẩn. Mỗi bài vị được đặt trong một cái khám giống nhau như một cái ngai cách điệu trông rất uy nghiêm. Nguyên thủy, điện Voi Ré còn có bài vị của các vị thần trong tín ngưỡng dân gian như tần Hà Bá, Thổ Công, Ngũ Hành, Thủy Long, Ngọc Nữ…


Trước đây, hai miếu hai bên Long Châu miếu có 4 bài vị đề tên là Đô Đốc Hùng Tượng Ré, Đô Đốc Hùng Tượng Bích, Đô Đốc Hùng Tượng Nhĩ, Đô Đốc Hùng Tượng Bôn, đây là 4 con voi lập nhiều công trạng dưới triều Nguyễn trong các trận chiến.

Theo nhà nghiên cứu Dương Phước Thu, điện Voi Ré được xây dựng do vua Gia Long và người dân thời đó rất kính phục lòng trung thành của con voi chết vì chủ. Theo truyền thuyết, dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, voi của một dũng tướng Đàng Trong đau buồn trước cái chết của chủ mình giữa trận tiền đã chạy trên một quãng đường dài từ chiến địa về tận thủ phủ Phú Xuân, đến địa điểm điện Voi Ré ngày nay rống lên một tiếng vang trời rồi trút hơi thở cuối cùng. Cảm động trước sự trung thành của con voi chiến, người dân địa phương đã làm lễ an táng, xây mộ và gọi một cách mộc mạc là mộ Voi Ré.


Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho xây dựng Long Châu Miếu kế bên mộ voi, vừa để làm nơi thờ các vị thần bảo vệ voi và thờ bốn con voi dũng cảm nhất trong các cuộc chiến của triều Nguyễn. Sau khi điện Voi Ré xây xong, hàng năm nhà Nguyễn đều tổ chức tế lễ hai lần vào mùa thu và mùa xuân.

Ông Phan Văn Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cho biết, sau chiến tranh, điện Voi Ré từng được sử dụng làm kho thuốc nổ của hợp tác xã Long Thọ, trường mầm non nên nhiều công trình đã xuống cấp. Vừa qua, Trung tâm đã tiến hành trùng tu xong hệ thống tường thành, dùng các thanh gỗ gia cố trạm Tây Phối Điện, Đông Phối Điện để tránh đổ sập.

Hiện điện Voi Ré có tổ bảo vệ trực hàng ngày để hướng dẫn khách tham quan du lịch Huế 5 ngày. Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2016 – 2020, điện Voi Ré sẽ được trùng tu, đặc biệt là Long Châu Miếu.

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018

Cảnh quan hoang sơ kỳ thú của xã đảo Kiên Hải Kiên Giang

Kiên Hải là một trong 2 huyện đảo của tỉnh Kiên Giang với 23 hòn đảo nằm trải dài 100km đường biển trong tỉnh. Vì thế, Kiên Hải có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các sản phẩm du lịch như: du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, vườn đồi, thể thao dưới nước, hội thao, leo núi, cắm trại dã ngoại…

“Tháng ba bà già đi biển”, vì vậy, muốn vui chơi thoải mái ở biển, có lẽ thời điểm này là thích hợp nhất bởi thời tiết rất thuận tiện, biển hầu như không có bão tố, ít sóng gió.


Theo hướng Tây Nam, giữa màu xanh ngọc bích của nước biển, du khách tour đi Phú Quốc 3 ngày 2 đêm có thể thấy các hòn đảo nhỏ với những rặng dừa xanh mát. Huyện Kiên Hải có nhiều bãi đẹp và sạch như: Hòn Mấu (Nam Du), Bãi Bàng (Lại Sơn), Bãi Chén (Hòn Tre), Bãi Ngự (An Sơn)... Xa khơi là Hòn Củ Tron, Hòn Ngang, Hòn Dầu... những tiểu đảo của quần đảo Nam Du góp phần tô điểm cho bức tranh toàn cảnh hoành tráng của biển cả... Đến đây, du khách có thể cảm nhận được nét hoang sơ của các hòn, khám phá nhiều cảnh quan kỳ thú với nhiều chim muông và động vật hoang dã.

Điểm dừng chân đầu tiên trong cuộc hành trình khám phá huyện đảo Kiên Hải là xã Hòn Tre, trung tâm huyện lỵ Kiên Hải, cách thành phố Rạch Giá 30km. Từ xa, Hòn Tre mang hình dáng giống như một con rùa khổng lồ đang bơi giữa biển, cũng vì vậy, người dân địa phương quen gọi nơi đây là đảo Rùa.


Đến Hòn Tre mùa này, bạn tha hồ theo những con đường mòn xuyên rừng, leo dốc để khám phá vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên nơi đây. Những cơn gió mát lành của rừng hòa với tiếng sóng rì rầm của đại dương không chỉ giúp du khách xua tan cái nóng nơi đất liền mà còn mang đến cho bạn cảm giác hào sảng, khỏe khoắn. Bạn hãy thuê một chiếc xe ôm, giá chỉ trên 10.000 đồng để khám phá quanh đảo, theo một con đường ngắn dọc theo bờ biển. Suối Lớn, suối Vàng, Đuôi Hà Bá là những địa danh bạn nên đến thăm. Bãi Chén là một bãi tắm lý tưởng với nhiều hòn đá to nhỏ và còn vắng người. Bạn cũng có thể mang theo một bếp ga mini hay lò than nhỏ để chế biến hải sản tươi sống mua của ngư dân trên đảo. Khi hoàng hôn buông xuống, bạn hãy ra cầu cảng ngắm cảnh những chiếc tàu đánh cá nối đuôi nhau vào bờ.

Trên mỏm Đá Bàn (ấp Bãi Nhà B, xã Lại Sơn) mỗi ngày có hàng trăm lượt người đến câu cá. Người dân trên đảo đến đây câu để mưu sinh cũng có mà du khách câu giải trí cũng nhiều. Du khách thích mạo hiểm có thể theo chân đoàn ngư phủ ra khơi xa xem đánh lưới, bắt cá hoặc giong thuyền xem bắt mực bằng ốc voi. Ốc voi là một sản phẩm đặc trưng, thịt giòn, luộc làm gỏi trộn với bắp cải hoặc chuối cây, thịt ngọt lừ, ngon hơn ốc bươu hoặc ốc lác. Giá bán 30 ngàn đồng/ký. Mười năm trước vỏ ốc voi thường đổ bỏ nhưng vài năm trở lại đây vỏ của nó bán giá 3.500 đồng/con, bà con ngư phủ mua về kết với dây đen làm lưới đánh bắt mực, thật là “Nhất cử lưỡng tiện”.


Cơ sở chế biến nước mắm Hòn Sơn Rái, Miếu thờ bà Chúa Hòn, Đình thờ Nguyễn Trung Trực và Nam Hải Đại tướng quân trên đảo cũng là những điểm đến thu hút được nhiều du khách tour Hà Nội Phú Quốc 4 ngày 3 đêm. Bãi Bàng, một vùng bãi biển cát trắng, nước biển xanh trong là một bãi tắm lý tưởng của Hòn Sơn.

Để thu hút được ngày càng nhiều du khách, hiện nay, chính quyền huyện Kiên Lương đã giao đất, chuẩn bị thi công phát triển du lịch sinh thái biển khu vực Bãi Bàng (xã Lại Sơn) và Bãi Chén (xã Hòn Tre). Theo dự kiến, khu du lịch sinh thái biển Bãi Bàng sẽ được xây dựng trên diện tích 20ha với nhiều hạng mục phục vụ du lịch như nhà nghỉ dưỡng, nhà hàng, cầu dẫn, cảng, cây xanh, dịch vụ lặn, bể chứa nước suối, bè nuôi cá nước mặn, khu lướt sóng và các trò chơi dưới nước...

Thứ Ba, 10 tháng 7, 2018

Cơm âm phủ - Đại diện của nghệ thuật chế biến ẩm thực Huế

Dù có tên gọi kỳ bí nhưng món ăn với hương vị thơm ngon vừa giản dị lại phảng phất phong cách cung đình khiến nhiều thực khách mê mẩn.

Cơm âm phủ, là một trong những món ăn tiêu biểu cho nghệ thuật chế biến đậm nét văn hóa ẩm thực Huế. Trước đây, món ăn này vẫn được lưu truyền với câu: “Muốn ăn cơm dĩa trữ tình/ Có quán Âm phủ ma rình phía sau”. Tuy có tên gọi kỳ bí nhưng món ăn này có hương vị thơm ngon vừa giản dị lại phảng phất phong cách cung đình khiến nhiều thực khách du lịch Huế 5 ngày mê mẩn.


Tương truyền, món ăn độc đáo này bắt nguồn từ một câu chuyện xa xưa khi Đức vua cải trang làm thường dân đi thăm thú khắp nơi. Khi trời tối, ngài tá túc tại nhà một bà góa già. Do hoàn cảnh cơ hàn, khó khăn nên bà góa chỉ có thể dọn cho vua chén cơm trắng cùng một ít rau các loại xếp xung quanh.

Lúc này, vua đói và mệt nên đã ăn ngon lành hết sạch chén cơm. Khi về cung, ngài cứ lưu luyến mãi hương vị nên sai đầu bếp thêm các nguyên liệu chế biến lại. Về sau, món cơm được đặt tên là “cơm âm phủ”.

Tuy nhiên, bên cạnh câu chuyện này cũng có nhiều giả thuyết khác cho biết, cơm âm phủ thực chất là do một doanh nhân mở ra hồi đầu thế kỷ XIX. Quán dựng ở vùng đất vắng, lại thường mở tới khuya phục vụ khách chủ yếu là người đi xem tuồng, hội, ca, múa…

Trong quán chỉ sử dụng một chiếc đèn dầu cháy leo lắt, lại chỉ bán duy nhất món cơm bình dân trộn lẫn với thịt nạc, rau củ quả, ăn kèm nước chấm đủ ngũ sắc (trắng, xanh, vàng, đỏ, đen) nên khách hàng vui miệng mà gọi tên món cơm quán ấy là cơm âm phủ.

Dù truyền thuyết, nguồn gốc cơm âm phủ có khác nhau, nhưng khi món ăn được đưa ra, bạn sẽ bị thu hút bởi sự độc đáo trong nghệ thuật trình bày cũng như hương vị thơm ngon rất khó trộn lẫn. Với món cơm âm phủ truyền thống, thông thường cơm trắng sẽ được đặt ở giữa, xung quanh lần lượt là các món rau củ, thịt nướng, trứng tráng, giò lụa và tôm được đặt đối xứng đan xen với nhau…

Trong đó, cơm phải được nấu từ gạo ngon, thơm và dẻo, thịt nướng phải là loại thịt nạc vai tươi ngon, đem đi thái bản mỏng rồi ướp với gia vị sau đó nướng trên than củi. Giò lụa được làm bằng thịt heo quết nhuyễn, gói thành từng thanh nhỏ. Thêm vào đó là trứng vịt đổ mỏng, tôm chà bông; rau thơm các loại, dưa leo cắt sợi... Tất cả các thứ này đều được cắt dạng sợi nhỏ.


Khi trình bày có thể trộn sẵn với nhau hoặc để thực khách tự trộn đều. Ngoài ra, khi ăn kèm với cơm âm phủ không thể thiếu một chén nước mắm có pha tỏi, đường, nước cốt chanh. Rưới nước mắm và trộn đều cơm cùng các loại thức ăn trước khi thưởng thức.

Sự tổng hòa về màu sắc và sự hòa quyện các nguyên liệu sẽ mang lại hương vị đặc trưng, khó lẫn cho thực khách tour hè 2018.

Trước kia, cơm âm phủ thường dành cho những người lao động đêm, là món giúp họ chắc bụng, đủ sức cho những giờ mưu sinh nhọc nhằn. Nhưng ngày nay, món ăn này xuất hiện từ những quán ăn bình dân cho đến những nhà hàng sang trọng. Tới Huế, bạn có thể ghé quán cơm âm phủ ở 35 hoặc 51 Nguyễn Thái Học để thưởng thức món ăn vừa giản dị, vừa phảng phất phong cách cung đình này.

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2018

Thưởng thức bánh hỏi lòng heo ngon nổi tiếng của Phú Yên

 Nếu có dịp du lịch đến Phú Yên, ngoài ngắm những cảnh đẹp như mơ du khách du lịch hè 2018 không thể bỏ qua những món đặc sản của Xứ Nẫu, trong đó có món bánh hỏi lòng heo ngon nổi tiếng.

Món bánh hỏi gắn bó mật thiết đến nỗi người dân bảo rằng "đến đây mà chưa ăn qua món này thì coi như chưa tới". Đó chính là bánh hỏi lòng heo đất Phú Yên


Ở Phú Yên, bánh hỏi được làm từ bột gạo và có quy trình chế biến đặc biệt công phu, tỉ mỉ.

Bánh hỏi thường gia vị thêm mỡ hành, ăn kèm với thịt quay, thịt nướng, lòng heo… đây là món ăn không thể thiếu trong những dịp lễ, cúng giỗ, cưới hỏi, lễ cúng ở đình, chùa của người dân và là một nét văn hóa ẩm thực của các địa phương.

Tiêu chuẩn của một đĩa bánh hỏi ngon là cọng bánh phải nhỏ bằng que tăm tre, các miếng bánh không bị rời ra hay vón cục, khi cắn vào miệng người ăn không thấy bở, lúc nhai kỹ thì cảm nhận được vị ngọt của bột gạo, vị béo của dầu dừa và mùi thơm của rau hẹ.

Tất cả hỗn hợp ấy sẽ hòa lẫn cùng vị bùi của miếng gan heo, vị béo của miếng phèo non hoặc miếng thịt ba chỉ được luộc khéo để thành món ăn sáng được xếp vào hàng đặc sản của vùng đất một thời nổi tiếng.


Ăn bánh hỏi, bạn hoàn toàn yên tâm về sự ngon, lành của nó. Màu trắng đục là màu của bột gạo, vì bất cứ hóa chất nào trộn vô bột đều không thể hấp thành bánh. Người ta thêm lá hẹ thái nhỏ phi dầu bóng loáng thoa lên miếng bánh trông thật mướt mắt. Từng miếng bánh hỏi trắng tinh, óng ánh sắc xanh của lá hẹ chỉ nhìn thôi cũng đã cồn cào.

Riêng công đoạn chọn thịt, luộc lòng cũng không phải là điều đơn giản. Muốn đĩa lòng heo được ngon, người chủ phải chọn con heo mới thịt. Đĩa lòng phải có đủ tim, gan, cật, phèo non và nhất định không thể thiếu miếng thịt ba chỉ, loại lấy dưới nây bụng. Khi luộc, thịt và lòng được xâu vào một sợi lạt tre, chờ nước sôi già thả nguyên xâu lòng vào chừng mười phút.

Vấn đề quan trọng của việc luộc thịt và lòng không phải là làm thế nào cho chín mà phải làm thế nào cho ngon. Muốn lòng và thịt ngọt ngon, có độ giòn thì sau khi vớt thịt khỏi nồi nước sôi lập tức thả ngay vào một thau nước đá cục được chuẩn bị sẵn. Chính cái lạnh của đá sẽ làm cho bề mặt miếng thịt se lại, giữ nước ngọt của thịt và đặc biệt làm cho miếng thịt, miếng lòng vừa trắng vừa giòn.


Mỗi khi ăn, từng lá bánh được gỡ bày ra đĩa rồi phết lên đó hỗn hợp dầu dừa pha với lá hẹ xắt thật nhỏ. Dầu dừa phải là loại dầu ép tay vàng óng có màu mật ong được thắng tới thơm lừng. Lá hẹ phải là loại hẹ chỉ, hơi cay và thơm (không bao giờ dùng hành lá hay hẹ trâu lớn cọng mà không hương vị như ở thành phố). Rồi là thứ nước nhìn vào sóng sánh rất bắt mắt, khi nếm, một lúc lâu sau vẫn còn vị mặn, mùi thơm đọng trên đầu lưỡi.

Dùng kèm bánh hỏi là các loại rau sống và chuối chát non được xắt lát mỏng (tên gọi loại chuối nhiều hột thường dùng để ngâm rượu), để hưởng hết hương vị ngọt bùi của hạt gạo quê hương, người ta không ăn với tôm chà bông như kiểu ăn của người Huế hay ăn cùng nhân tôm thịt theo kiểu người Sài Gòn mà lại ăn cùng lòng heo – thịt luộc. Một đĩa lòng heo dọn kèm đĩa bánh hỏi, cộng thêm đĩa rau sống tươi xanh và chén mắm pha gia vị vừa phải sẽ tạo nên hương vị đậm đà đặc biệt.

Bởi thế, du khách tour du lịch Quy Nhơn Phú Yên có thể ăn bánh hỏi bất kể sáng, trưa, chiều, tối đều rất ngon. Bánh hỏi nổi tiếng nhất là ăn kèm với lòng heo luộc và một bát cháo loãng, nấu bằng huyết và thịt nạc băm ngọt lịm. Đĩa lòng heo luộc rất khéo, đủ tim, gan, cật, phèo non và thịt ba chỉ, vừa giòn lại vừa mềm, ngọt. Nhớ phải húp cháo sột soạt lúc còn nghi ngút khói mới đúng điệu.

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2018

Hương vị đặc trưng dân dã của bánh căn Đà Lạt

Bánh căn Đà Lạt – một trong những món ngon Đà Lạt, một món ăn giản dị, dân dã nhưng khiến bất kì ai từng đến Đà Lạt đều phải một lần nếm thử, để đem về chút kỉ niệm cho chuyến hành trình. 

Bánh căn- Hương vị dân dã của phố núi

Nhiều du khách tour Nha Trang Đà Lạt 5 ngày 4 đêm đến với phố núi Đà Lạt thường dành một khoảng thời gian nhất định trong hành trình của mình để khám phá, tìm hiểu những món ngon của xứ sở ngàn hoa, để có thể trải nghiệm những điều thật bình dị và thường nhật như chính những người bản xứ. Trong số những món ăn bình dị ấy không thể không nhắc đến món bánh căn Đà Lạt, một món ngon Đà Lạt với hương vị rất đặc trưng.


Mang một hương vị đặc trưng bởi nó được du nhập vào Đà Lạt từ các vùng miền khác, lâu dần đã trở thành món ăn dân dã không thể thiếu tại mảnh đất phố núi này.

Chế biến đơn giản

Cách chế biến bánh không cầu kỳ, được đổ khuôn bằng bột gạo nhưng lại trở nên vô cùng đa dạng khi được kết hợp với nhiều loại nhân khác nhau theo từng khẩu vị của thực khách, có thể là trứng gà ta, trứng cút, trứng vịt được đổ lên mặt bánh khi bột bánh đã se lại gần chín. Thực khách có thể thay thế nhân trứng bằng nhân thịt, hải sản, không thì một chút đậu xanh cũng có thể tạo nên một chiếc bánh với hương vị vô cùng độc đáo.

Những quả trứng được đập thật đều tay và đưa vào giữa khuôn, vàng ươm điểm xuyết trên nền bột bánh trắng phau. Đậy nắp vào khuôn bánh, nghe tiếng than tí tách nổ lộp độp càng làm thực khách ngồi chờ nóng ruột chỉ muốn thưởng thức ngay.

Thưởng thức bánh trong chiều mưa lạnh


Khi bánh chín, bánh được bày thành từng cặp trên đĩa, ăn kèm với một ít chả lụa, xíu mại và nước chấm. Nước chấm được pha chế rất khéo léo theo phong cách riêng của người Đà Lạt gồm nước mắm pha với một chút mỡ hành và một chút ớt hoặc sa tế tạo nên một mùi vị vô cùng đậm đà và riêng biệt. Nhưng đôi khi nước chấm đơn thuần chỉ là mắm nêm, với hương vị rất nhẹ nhàng theo đúng vị của người Đà Lạt.

Đến Đà Lạt, trong một buổi chiều mưa lạnh, thưởng thức món bánh căn nóng hổi cùng bát nước chấm chua ngọt, tê tê nơi đầu lưỡi thì còn gì thú vị hơn. Vị thơm nhẹ nhàng, thoang thoảng của bột gạo xay hòa lẫn cùng vị bùi bùi, béo béo của trứng, cùng vị đậm đà rất riêng của nước mắm, tất cả hòa quyện tạo nên một nét văn hóa ẩm thực độc đáo, một món ngon Đà Lạt làm say đắm lòng người.

Ở Đà Lạt, du khách du lịch biển hè 2018 đi bất kì hướng nào, đương nào, từ ngõ hẻm cho đến phố lớn cũng đều bắt gặp hàng bán bánh căn là những gánh hàng rong, những chiếc xe đẩy miệt mài trên phố hay những cửa hàng khang trang. Du khách có thể lựa chọn thưởng thức bánh vào buổi sáng như một món điểm tâm nhưng được ưa chuộng nhất vẫn là ăn vào buổi chiều tối, khi hoàng hôn buông xuống, khi không gian được bao phủ màn sương đem theo hơi gió se lạnh.

Nếu có dịp trải nghiệm các hành trình tham quan du lịch trong nước, qua các vùng miền, chắc cũng thấy rõ bánh căn có mặt ở rất nhiều nơi, đặc biệt là bánh căn Phan Thiết nổi tiếng thơm ngon. Tuy vậy khi đến với Đà Lạt, thưởng thức món ngon Đà Lạt – bánh căn, đúng là du nhập đó nhưng thực khách lại có được cảm nhận hương vị rất thanh tao, nhẹ nhàng và thơm ngon lạ lùng, bởi nó chưa một nét tinh tế riêng biệt của Đà Lạt và con người ở nơi đây.

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2018

Khám phá 5 điểm đến đầy lôi cuốn của du lịch Quy Nhơn

Tháng 6 gõ cửa mùa hè. Những cung đường lại trải rộng. Những bãi biển xanh ngút mắt lại gọi mời. Về Quy Nhơn mùa này, biển và trời như đang hoà làm một, những con sóng đang rì rào vỗ bờ nhè nhẹ. Về Quy Nhơn để rồi phải đi cho bằng hết 5 điểm du lịch được mệnh danh “cửa ngõ thiên đường”.

1. Kỳ Co

Đây thực sự là thiên đường nơi hạ giới tại Quy Nhơn. Kỳ Co là một bãi biển uốn cong hình chữ U, có 3 mặt tựa lưng vào núi, mặt còn lại hướng ra điểm. Điểm đặc biệt nhất của Kỳ Co là màu nước xanh trong như màu ngọc bích. Đến đây, nếu không được báo trước về địa điểm, khu vực, rất có thể du khách dễ nhầm tưởng mình đang rảo bước ở... thiên đường. Mọi thứ còn nguyên vẻ hoang sơ, kỳ vĩ với những cụm núi đá được tạo hóa ngẫu nhiên bày biện. Núi chạy len ra giữa biển. Biển ôm lấy núi mà dịu dàng vỗ bờ miên man. Đứng ở Kỳ Co một chiều hè để ngắm hoàng hôn, ngắm mây trời như sóng sánh hát ca thì tuyệt không gì bằng.


Ngoài cảnh đẹp, du khách đến Kỳ Co còn được thưởng thức những sản vật của biển ngay trên bãi biển đậm chất hoang dã. Các món ăn sẽ được người dân kê đá, nấu nướng đơn sơ tại chỗ. Nào là chiến lợi phẩm hàu Kỳ Co nướng, nào là cá tôm tươi ngon, mùi thơm lan tỏa cả một góc bãi biển. Du khách du lịch biển Quy Nhơn muốn đến Kỳ Co có nhiều cách như liên hệ với công ty du lịch hoặc tới thẳng xã Nhơn Lý (cách TP.Quy Nhơn chừng 25 km) rồi thuê dịch vụ của người dân địa phương. Chi phí cho một buổi tham quan, tắm biển và ăn uống tại Kỳ Co khoảng 300.000-350.000 đồng/người.

2. Eo Gió

Cái tên, nghe qua đã hình dung ra một nơi đầy gió. Quả vậy, Eo Gió là một dãy núi chạy dọc biển, có khúc lõm hẹp. Đứng ở nơi này, chỉ cần dang tay ra thôi là đã có cảm giác như đang được gió nhấc bổng lên. Eo Gió thuộc xã Nhơn Lý, cách TP.Quy Nhơn 25 km. Đến Eo Gió thích nhất là 2 thời điểm bình minh và hoàng hôn. Đây được mệnh danh là nơi ngắm mặt trời mọc và mặt trời lặn đẹp nhất Việt Nam.


Khoảng đồi dẫn lên Eo Gió rộng lớn và lộng lẫy không khác những cảnh phim thường thấy ở Châu Âu, Châu Mỹ. Nơi này thường được các cặp cô dâu chú rể chọn là nơi để chụp hình cưới, hay các bạn trẻ đến đây để ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ trong đời. Và, nói kiểu nào đi nữa, Eo Gió cũng rất đáng để đến, để hít hà mùi biển, để nghe sóng ầm ào quăng quật vô những tảng đá chơ vơ, tung bọt trắng xoá.

3. Khu dã ngoại Trung Lương - Cát Tiến


Nếu bạn thích một nơi vừa có “núi đồi lồng lộng chiều sương nhớ ai” vừa có “biển một bên và em một bên”, vừa được thưởng thức đồ ăn ngon tại một nhà hàng đậm phong cách châu Âu với giá cả Việt Nam thì Khu dã ngoại Trung Lương - Cát Tiến là một lựa chọn khôn ngoan.

Nằm cách TP.Quy Nhơn khoảng 30 km hướng về xã Cát Tiến, H.Phù Cát, khu dã ngoại này sẽ đáp ứng hầu hết mong muốn của bạn về một nơi có vẻ đẹp tổng hoà của núi, của biển. Đến đây, nhiều du khách cho biết, họ gần như quên mất họ đang làm gì, ở đâu, quên mất những lo nghĩ bộn bề mà mới vài khắc trước còn ngồn ngộn trong đầu. Đến đây rồi, chỉ còn những băn khoăn vì sao mỏm núi kia đẹp thế mà lại ở gần đến vậy. Chỉ còn tiếc nuối rằng biết trước biển đẹp vầy, có khu tắm nước sạch tiện nghi lịch sự vầy mà lại quên một bộ bikini thần thánh…

4. Bãi Trứng (hay còn gọi là Bãi tắm hoàng hậu)


Bãi Trứng thật sự là một nơi rất đáng để ghé qua. Nằm bên trong khu Đồi Thi Nhân (Ghềnh Ráng, TP.Quy Nhơn), Bãi Trứng đủ sức thu hút khách du lịch hè 2018 thập phương xa gần bởi vẻ đẹp hiện tại và những câu chuyện từ quá khứ.

Theo sử sách kể lại, đây là nơi Nam Phương Hoàng hậu khi xưa chọn làm nơi nghỉ dưỡng và tắm biển. Vì vậy, nơi này còn có tên là Bãi tắm Hoàng hậu. Bãi Trứng có một tầm nhìn rộng, bao chứa được cả thành phố Quy Nhơn xinh xắn. Trên bãi, thay vì là cát vàng phẳng mịn thì Bãi Trứng là một quần thể của những hòn đá nhẵn thín, tròn tròn giống hình quả trứng. Sóng ở đây vỗ bờ khá mạnh, sủi bọt trắng xóa. Tại đây, những người mê nhiếp ảnh dễ dàng giữ lại cho mình nhiều khoảnh khắc đẹp.

5. Bãi biển Quy Nhơn


Cũng là bãi biển đấy thôi, nhưng đến Quy Nhơn thì nhất định phải đi dọc bãi biển hình bán nguyệt mơn man ôm ấp thành phố thi ca này. Bãi biển Quy Nhơn còn giữ được nhiều đoạn cát trải rộng, nét hoang sơ mộc mạc và chân chất của một thành phố biển hiền hoà.

Nếu mỏi chân, du khách có thể ghé lại ở một quán bar ngay trên bãi biển. Quán đậm chất mộc, bày biện hết bàn ghế ngoài trời để khách tha hồ hóng gió biển, ngắm trời mây và những chùm sao đêm nhấp nháy. Đến Quy Nhơn, hãy thả hồn mình lơ lửng, hãy mơ mộng theo những bản nhạc trầm mà biển sóng hòa ca.

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

Những đặc sản bạn nhất định phải thử khi đến Cà Mau

Những con cá rô béo ngậy, chiên vàng ruộm hay thịt lươn thơm mùi rau ngổ, bánh tằm gà cay thơm nồng mùi cà ri là những món bạn nhất định phải thử khi đến vùng đất Mũi.

1. Cá rô chiên xù

Vùng đất Cà Mau với nhiều kênh, rạch chằng chịt nên vào mỗi mùa, cá rô đồng ngoi lên nhảy tanh tách. Người dân nơi đây cũng dễ dàng đánh bắt và chế biến thành nhiều món ăn ngon như mang đậm hương vị quê hương như: cá rô kho tộ, nướng, nấu canh chua…nhưng ngon nhất và hấp dẫn nhất vẫn là món cá rô chiên xù.


Nhiều du khách tour miền Tây 4 ngày 3 đêm đến đây rất thích món ăn này bởi thịt cá giòn ngọt và chấm cùng nước mắm gừng cuốn với bánh tráng, rau rừng, ngon không thể cưỡng lại được. Thường cá rô được đánh bắt về được làm sạch, để nguyên vẩy, ráo nước rồi cho cả con vào trong chảo dầu ngập mỡ, chiên tới khi vàng ruộm mới vớt ra. Muốn cá ngon trước khi chiên nhúng sơ qua vào nước muối, cá sẽ giòn.

Cá chín giòn rụm, ăn kèm với rau xanh. Chấm ngập miếng cá vào bát nước mắm nguyên chất hay mắm me cảm nhận vị ngọt thơm của tan chảy nơi đầu lưỡi. Món cá rô chiên xù có giá 90.000 và du khách có thể dùng thử tại canteen rừng U Minh Hạ.

2. Lươn um rau ngổ

Món lươn um rau ngổ cũng là một món ăn dân dã nhưng nhất định bạn nên thử. Những con lươn được làm sạch, chặt thành khúc nhỏ rồi nấu với gia vị riêng và nước dừa tạo thành một hương vị thơm độc đáo.


Với vùng đất Cà Mau, lươn thường hay sống nơi ao, đìa nơi có nhiều rơm rác. Để bắt được lươn, người ta thường đặt trúm. Những con lươn to, béo được làm sạch nhớt bằng cách cho giấm, muối hay tro bếp rồi làm sạch, ướp một chút gia vị, tiêu, ớt, bột ngọt.

Những cọng rau ngổ tươi, xanh mọc đầy ở các ao, đìa cạn, bỏ bớt phần lá chỉ lấy phần cọng rồi rửa sạch, rải một lớp dưới đáy nồi rồi cho lươn lên trên, cho nước dừa tươi, đem đun liu riu trên bếp. Để có màu vàng bắt mắt, người ta cho thêm một chút nước nghệ. Khi lươn chín sẽ tỏa mùi thơm nức, cho thêm chút sả bằm nhuyễn, lạc rang giã nhỏ lên trên, khi ăn có vị rất đặc trưng.

3. Bánh tằm gà cay

Bánh tằm gà cay được bán ở nhiều hàng quán ở đất Mũi, rất nổi tiếng với hai loại là tằm cà ri gà và bánh tằm xíu mại. Món ăn này du khách du lịch miền Tây Nam Bộ có thể thưởng thức bất cứ lúc nào đều rất thích hợp.


Những sợi bánh tằm được xé rời, viên xíu mại xinh xắn được điểm xuyết phía bên trên là giá sống, xà lách và rau quế tạo nên món ăn đầy hấp dẫn và bắt mắt. Bạn sẽ cảm nhận rõ mùi cà ri thơm nồng được chan lên bánh sền sệt, cay xé lưỡi.

Bánh tằm phải ăn nóng mới ngon, khi ăn cảm nhận vị béo, chút mặn của muối và vị cay nồng của cà ri cứ lan tỏa trong miệng.

4. Vọp nướng chấm muối tiêu

Món ăn này vừa mang hương vị đặc biệt, vừa mang niềm vui bất tận cho khách . Món vọp cũng trở thành món ăn được săn tìm ở vùng đất này. Thường người ta sẽ chọn những con vọp to, ngon rửa sạch để ráo nước rồi đặt lên vỉa nướng trên bếp than hồng.

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2018

Những đặc sản giản dị của đất Quảng Bình

Quảng Bình mang trong mình những bài hùng ca của một thời anh dũng nay bình yên và giản dị với những phong cảnh tuyệt vời và các món ăn ngon đặc sản, khó quên.

Quảng Bình, không chỉ là dải đất miền Trung nổi tiếng với vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận di sản thế giới, bờ biển đẹp cùng những câu chuyện lưu giữ lịch sử hào hùng của dân tộc.

Đó còn là tên một vùng đất chứa trong mình nhiều đặc sản mang hương vị đặc trưng khiến cho du khách tour Quảng Bình đến đây cứ lưu luyến mãi chẳng quay về.

Cháo canh

Cháo canh là một trong những đặc sản Quảng Bình cũng như phở Hà Nội hay bún bò Huế. Có người gọi là cháo bánh canh hay bánh canh Quảng Bình bởi thành phần của nó là những sợi như bánh canh gạo.


Giản dị và không hề chau chuốt, loại sợi bánh canh này được làm thủ công, từ nhào, cán, cắt mỏng nên khá to, dày, cứng. Thêm nước dùng sền sệt với sự kết hợp của cá, tôm, thịt heo nạc... Khi phục vụ khách, cháo canh được rắc lên hành, ngò thái mỏng thơm lừng. Món cháo canh ăn kèm với rau cải xanh thái nhỏ tạo cảm giác bùi bùi, cay hăng khi thưởng thức.

Đặc biệt, một số người còn ăn chung cháo canh với nem chả cho vị lạ miệng hơn.

Khoai deo

Món khoai deo - đặc sản Quảng Bình rất đặc biệt. Dù chỉ từ nguyên liệu duy nhất là khoai lang, họ làm ra món dân giã mềm dẻo, ngọt nhẹ và thơm rất ngon miệng.

Cách chế biến khoai deo đơn giản như chính cuộc sống người dân nơi đây. Khoai để một thời gian cho bớt tươi nhưng chưa được mọc mầm, rửa sạch, luộc chín, rồi bóc vỏ, thái lát mỏng đem phơi dưới trời nắng miền Trung, càng gay gắt càng tốt cho đến khi khoai chuyển màu cánh gián.


Ăn khoai deo không được nóng vội nếu không thì chỉ thấy cứng và khô mà thôi. Phải nhâm nhi từ từ, từng chút một mới tận hưởng hết vị nắng gió, mùi khoai thuần chất và cái ngọt ngào của đất chắt chiu trong những miếng khoai “xấu mã”.

Đến Quảng Bình, mang khoai deo về làm quà là mang cả trời, cả tấm lòng mộc mạc nhưng chân thành của họ theo cùng.

Bánh lọc

Không phải có quê nhà từ Quảng Bình nhưng bánh lọc nơi đây lại được gia giảm và biến đổi khác đi, khiến cho nó có điểm khác hơn ở xứ Huế. Thứ bột sắn lọc bọc ngoài tôm đồng, mộc nhĩ và các loại gia vị khác lại tạo nên hương vị khó quên cho du khách tour hè 2018.


Nhìn thì đơn giản nhưng quá trình chế biến cũng lắm công phu, bột làm bánh một nửa đem luộc chín vài phần (khi nhìn thấy lớp ngoài trong suốt), phần nhân bên trong còn trắng sống. Vớt bột ra để nguội, đem nhồi kỹ trộn phần sống lẫn phần chín.

Sau đó, cho loại tôm nhỏ ở cửa sông, cùng với mộc nhĩ và các gia vị thân thuộc khác rồi gói lá chuối đem hông (giống như đồ xôi). Nếu không, có thể trụng trực tiếp và ăn nóng tại chỗ.

Bánh lọc chấm mới nước mắm chắt và ớt chỉ thiên cay xè mới đúng điệu. Món bánh này vừa rẻ, vừa ngon lại để được khá lâu nên khách du lịch đến đây không chỉ thưởng thức tại chỗ mà còn mua về làm quà.

Bánh xèo gạo lứt

Khác tất cả các loại bánh xèo thường thấy, bánh xèo Quảng làm bằng bột gạo lứt màu đỏ đặc trưng với những hoa văn nổi đều đẹp.


Bánh xèo là mộ trong những món đặc sản Quảng Bình ăn kèm với nhiều nguyên liệu đặc sắc khác như cá chuối, nộm, rau sống. Trong đó, có món “cá chuối” thật đặc biệt. Đó không phải tên một loại cá mà là chuối sứ bánh tẻ gọt vỏ, ngâm với phèn hoặc chanh rồi thái nhỏ, luộc chín, uốn thành hình con cá, nhúng qua vào bát gia vị. Nộm gồm giá, rau két và vừng. Bánh xèo cuốn rau sống, cá chuối, nộm, rồi kẹp bánh đa kèm nước chấm ngon.

Bánh xèo ăn nóng, ngon nhất là đổ tới đâu ăn tới đó. Đến Quảng Bình phải ghé qua Quảng Hòa mới thấy hết vị của bánh xèo đặc trưng vùng đất này.

Đẻn biển

Đây là tên khác của loài rắn biển thân nhỏ, dài, thon và có giá trị cao trong thực phẩm cũng như chữa bệnh. Những món chế biến từ đẻn biển rất tươi ngon, bổ dưỡng, đáng để thử qua.



Trong số đó, tiết đẻn là món du khách ưa thích và thường gọi khi đến Quảng Bình. Đẻn biển được người có nghề cắt tiết, cho vào rượu và phục vụ khách ngay khi xong hoặc cho vào ngâm nguyên con rất tốt cho phụ nữ và khiến người ta ăn ngủ tốt hơn.

Tiết đẻn với rượu cho vị ấm nồng và chan chát rất khó quên cho người ta lâng lâng trong men say, nhất là khi vừa được tận hưởng vẻ đẹp của các hang động tuyệt vời.

Thịt đẻn được làm thành nhiều món khác nhau từ băm nhỏ, ướp gia vị đem chiên thành từng chiếc ram nhỏ hay cháo đẻn, đẻn hầm sả ớt, đẻn bằm xúc bánh đa, chả đẻn, đẻn nướng cuốn lá lốt và đẻn hầm thuốc bắc… Món nào cũng tuyệt vời, món nào cũng thơm lừng và ngon đến miếng cuối cùng.

Ốc ruốc

Loại ốc đẹp bởi những hoa văn sở hữu trên mình thường dùng làm đồ mỹ nghệ, vòng vèo các loại. Ốc ruốc nhỏ ơi là nhỏ, những tưởng “làm gì có gì mà ăn” nhưng nếu thử một lần nếm vị thì khó mà quên. Người Quảng Bình gọi khêu ốc là nhể ốc. Người ta kiên nhẩn nhể từng con ốc chỉ bằng cái cúc áo để lôi ra cái ruột bé tí teo, chỉ như cái tăm để cảm nhận hết vị ngon thơm lạ lùng của giống này.

Ốc ruốc không phải luộc như bình thường mà được nêm muối, bột ngọt, lá chanh, ớt, thêm chút nước để xào nhanh với dầu ăn. Người làm phải thật khéo léo nếu không muốn ốc teo hết thịt, vừa khó nhể, vừa không giòn và ngọt.

Muốn thưởng thức ốc ruốc, các bạn nên thăm Quảng Bình từ tháng Hai đến tháng Tư – mùa ốc ruốc duy nhất trong năm. Ốc ruốc bán theo lon, mỗi lon cũng chỉ mấy ngàn đồng, ăn không ngán mà… mỏi tay.

Chắt chắt bánh tráng


Chắt chắt là tên gọi một loại hến ở cửa sông. Chắt chắt rửa kĩ, luộc qua cho há vỏ, lấy nhân làm món chắt chắt bánh tráng rất ngon.

Thịt chắt chắt cho gia vị đầy đủ, xào qua với dầu ăn, đem xúc bánh tráng như kiểu hến xúc bánh tráng ở Huế. Nhưng vị của chắt chắt lạ hơn do nó sinh ra ở nơi giao thoa giữa nước ngọt và mặn.

Khi ăn, không cần muỗng chén, chỉ cần bẻ bánh tráng cầm xúc chắt chắt, cho lên miệng kèm miếng rau thơm là đủ. Cái giòn thơm mùi vừng của bánh tráng, beo béo đậm đà của gia vị, dai dai, ngầy ngậy của chắt chắt thật khiến người ta khó kiềm lòng.

Món này ăn hoài không ngán, ăn no rồi mà còn vẫn thèm. Khắp các quán nhậu đều có món đơn giản và ngon lành này.

Lẩu cá khoai

Cá khoai, loại cá có xương mềm, thịt nhão nên nhiều người còn gọi là cá cháo, xưa chỉ dùng cho gia súc, nay biến đổi thành món đặc sản. Cá khoai ở Quảng Bình được đánh bắt và đem lên bờ sớm nên khách thường được ăn đồ tươi, thịt thơm ngon hơn nhiều nơi khác.

Cá khoai chỉ cần các loại gia vị bình thường để ướp làm lẩu. Nước dùng cũng chỉ xung quanh dăm ba loại cà chua, khế, nấm, chua me, măng chua, dưa cải. Khi ăn, mọi người quây quần bên nồi nước dùng, chờ sôi thì cho cá vào, sôi lại chút là vớt ra ăn liền lúc còn nóng hổi.

Vừa nói chuyện, vừa rẽ thịt cá khoai, hay nếu thích thì nhai cả xương, kèm chút rau sống: rau tương ơ, rau xà lách, rau cần, rau cải, rau ngò… thì không còn gì mong muốn hơn.

Chỉ là những món gần gụi và dân giã như thế thôi, đặc sản Quảng Bình vẫn khiến người ta không quên thương nhớ khi rời xa.